This site uses cookies.
Some of these cookies are essential to the operation of the site,
while others help to improve your experience by providing insights into how the site is being used.
For more information, please see the ProZ.com privacy policy.
This person has a SecurePRO™ card. Because this person is not a ProZ.com Plus subscriber, to view his or her SecurePRO™ card you must be a ProZ.com Business member or Plus subscriber.
Affiliations
This person is not affiliated with any business or Blue Board record at ProZ.com.
Services
Translation, Interpreting, Editing/proofreading, Software localization, Training
Expertise
Specializes in:
Human Resources
Advertising / Public Relations
Agriculture
Architecture
Finance (general)
Construction / Civil Engineering
Certificates, Diplomas, Licenses, CVs
Law: Contract(s)
Economics
Textiles / Clothing / Fashion
Also works in:
Education / Pedagogy
Law (general)
Government / Politics
More
Less
Rates
Vietnamese to French - Standard rate: 0.06 USD per word French to Vietnamese - Standard rate: 0.06 USD per word
Source text - French 1) La Lettre de Crédit irrévocable et confirmée est un document financier régit par la Chambre de Commerce International de Paris (CCI).
2) Les usages en L/C ne sont pas d’ouvrir ce document un mois avant l’expédition mais à la commande. Elle garantit la bonne fin du contrat pour autant que tous les termes et conditions aient été respectés.
3) Celle-ci rentrera en application après acceptation des termes et conditions par toutes les Parties soit par l’Acheteur et le Vendeur via leurs banquiers respectifs.
4) En ce qui nous concerne et à la commande, il y a lieu d’ouvrir une Lettre de Crédit Irrévocable et Confirmée par ING BELGIUM S.A., tous les frais bancaires étant pris en charge par l’Acheteur. D’autre part, nous suggérons que les termes de paiement soient de 40% à l’ouverture de la L/C et de 60% à l’expédition moyennant présentation aux banquiers de tous les documents appropriés (AWB, certificats sanitaires, …)
Translation - Vietnamese 1) Các thư tín dụng không hủy ngang và có xác nhận là một loại văn bản tài chính được Phòng Thương mại quốc tế tại Paris ( ICC) điều chỉnh.
2 ) L / C phải được mở vào thời điểm đặt hàng chứ không phải một tháng trước khi giao hàng để đảm bảo các điều khoản của hợp đồng được các bên tuân thủ và thực hiện nghiêm túc.
3) L/C sẽ có hiệu lực ngay khi các bên (bán và mua) chấp nhận các điều kiện của hợp đồng, thông qua ngân hàng của họ.
4 ) về phía chúng tôi, chúng tôi đề nghị khi quý công ty đặt hàng, hãy mở L/C không huỷ ngang và xác nhận bở Ngân hàng ING BELGIUM SA , tất cả các chi phí ngân hàng do bên mua chịu . Ngoài ra, chúng tôi đề nghị bên mua thanh toán 40% giá trị hợp đồng vào thời điểm mở L/C và 60% còn lại vào thời điểm hàng được gửi đi, với điều kiện bên bán xuất trình cho nhân hàng các giấy tờ liên quan (AWB , giấy chứng nhận sức khỏe, ... )
5) Thông thường, khi quý công ty đến ngân hàng yêu cầu mở L/C, ngân hàng sẽ đưa cho công ty tờ khai để điền, trc khi nộp cho ngân hàng, đề nghị gửi cho chúng tôi 1 bản scan để thảo luận trc để tránh mất thời gian đi tới đi lui ngân hàng.
Vietnamese to French: BÁO CÁO MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THIÊN NIÊN KỶ 2010
Source text - Vietnamese Việt Nam cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các Mục tiêu MDG và tích cực triển khai hiệu quả các nội dung của Mục tiêu MDG. Quan điểm phát triển chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Quan điểm này đã thể hiện một cách đầy đủ tinh thần của các Mục tiêu MDG mà Việt Nam cam kết với cộng đồng quốc tế.
Quan điểm trên đã được cụ thể hóa trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Các kế hoạch này đã đưa ra hệ thống các chỉ tiêu cụ thể trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong mỗi giai đoạn 5 năm, bao trùm các chỉ tiêu đã được xác định trong 8 Mục tiêu MDG.
Ngay sau khi cam kết thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ, Việt Nam đã triển khai xây dựng Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo (CPRGS), lấy ý kiến tham vấn rộng rãi các nhà khoa học, các tổ chức xã hội, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. CPRGS được ban hành năm 2002 đã cụ thể hoá các mục tiêu và giải pháp của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2001-2010. CPRGS đưa ra những Mục tiêu phát triển của Việt Nam (VDG) bao gồm những mục tiêu phù hợp các Mục tiêu MDG và nhiều chỉ tiêu bổ sung xuất phát từ điều kiện đặc thù của đất nước.
Việc xây dựng các Mục tiêu phát triển của Việt Nam (VDG) là một bước tiến bộ đáng kể trong cách tiếp cận thực hiện thành công các Mục tiêu MDG ở Việt Nam. Trên cơ sở tính chất tổng hợp và liên ngành của các Mục tiêu MDG, các Mục tiêu VDG có ý nghĩa bổ trợ, giúp đánh giá một cách tốt hơn các yếu tố, nguyên nhân và tác động của chính sách tới việc thực hiện các Mục tiêu MDG. Các Mục tiêu VDG là kết quả nghiên cứu tính phù hợp của các Mục tiêu MDG với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Đây là kinh nghiệm hoàn toàn có thể áp dụng được ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của quốc gia đó.
Translation - French Le Vietnam s’engage avec enthousiasme à la communauté internationale dans la réalisation des OMD et la mise en oeuvre active de leur contenu. Son point de vue stratégique sur le développement pour la période 2001-2010 est “d’atteindre un développement rapide, efficace et durable, de conjuguer la croissance économique, la garantie du progrès et de la justice sociale et la protection de l’environnement”. Ce point de vue a exhaustivement exprimé l’esprit des OMD auxquels le Vietnam s’est engagé avec la communauté internationale.
Ce point de vue a été concrétisé dans les Plans quinquennaux de développement socio-économique de 2001-2005 et 2006-2010. Ces plans ont élaboré un système de sous-objectifs chiffrés de développement socio-économique pour chaque période, englobant ceux contenus dans les huit objectifs du Millénaire.
Immédiatement après son engagement à mettre en oeuvre la Déclaration du Millénaire, le Vietnam a élaboré la Stratégie globale de croissance et de lutte contre la pauvreté (SGCLP), après la consultation large des experts, des organisations sociales, des bailleurs de fonds internationaux et des ONG. La SGCLP, promulguée en 2002, a concrétisé les objectifs et solutions établies dans la Stratégie décenale de développement socio-économique de 2001-2010. Elle a ainsi élaboré les Objectifs vietnamiens de développement (OVD), qui sont compatibles avec les OMD, tout en tenant compte des spéfificités de développement du Vietnam.
L’élaboration des OVD est une avancée vers la réalisation des OMD par le Vietnam. Si les OMD sont généraux et interdisciplinaires, les OVD aide à mieux évaluer les éléments, la raison d’être des politiques nationales et leurs impacts sur la mise en oeuvre des OMD. Les OVD sont le résultat d’une adaptation des cibles des OMD aux spécificités du Vietnam. Cette démarche est tout à fait applicable aux autres États, en fonction de leurs propres caractéristiques.
Vietnamese to French: Réforme de la gestion foncière
Source text - Vietnamese V. GIẢI PHÁP KHAI THÁC GIÁ TRỊ GIA TĂNG DỮ LIỆU HỒ SƠ ĐỊA CHÍNH.
Một trong những định hướng chiến lược của dự án là khai thác giá trị gia tăng trên nền tảng cơ sở dữ liệu địa chính nói riêng và các cơ sở dữ liệu ngành Tài nguyên và Môi trường nói chung. Từ nguồn thu này, chúng ta có thế tái đầu tư cho hệ thống và đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Việc khai thác giá trị gia tăng với mục đích hướng đến nhu cầu của cộng đồng và các tổ chức kinh tế, xã hội phải tuân thủ theo Nghị định số 102/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 09 năm 2008.
Để xây dựng một hệ thống khai thác giá trị gia tăng trên nền tảng cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính cần phải khảo sát kỹ lưỡng nhu cầu, yêu cầu của thị trường, đồng thời phải xây dựng một đề án chi tiết để trình UBND Thành phố cho phép.
Về tổ chức, Trung tâm Thông tin Tài nguyên – Môi trường và Đăng ký Nhà đất có trách nhiệm tham mưu, đề xuất cho Sở phương án khai thác giá trị gia tăng qua nguồn cơ sở dữ liệu đã được hình thành thông qua dự án này, đồng thời có trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, dự án đề ra định hướng đầu tư xây dựng hệ thống theo cơ chế BOT (Build – Operate – Transfer) nhằm thu hút đầu tư vào hệ thống khai thác giá trị gia tăng này từ các công ty có đủ sức mạnh với mục tiêu Nhà nước và doanh nghiệp cùng hưởng lợi thông qua thỏa thuận đầu tư. Mặc dù đây chỉ là giải pháp phụ song chúng ta cũng cần cân nhắc, nghiên cứu để thực thi trong tương lai nếu hội tụ các điều kiện
Những lợi ích mà cơ chế đầu tư BOT đem lại là:
Về phía Nhà nước :
- Nhà nước sẽ chọn được công ty có sức mạnh thực sự thi công hệ thống khai thác giá trị gia tăng. Các công ty mang tính chất làm ăn “chụp giựt, ăn xổi” sẽ không có cơ hội tham gia bởi vì chỉ có đầu tư nghiêm túc, lâu dài có chiến lược, có tổ chức thì mới thu được nguồn lợi từ hệ thống mà họ xây dựng.
- Việc phát triển hệ thống luôn được các công ty thực hiện vì không tiếp tục phát triển có nghĩa nguồn lợi bị giảm. Điều này đụng chạm đến doanh thu của chính công ty. Do đó việc bảo trì và nâng cấp hệ thống luôn được coi trọng và được thực hiện. Bất cứ sự thay đổi nào về thể chế cũng được tin học hóa nhằm hỗ trợ tốt nhất cho người sử dụng (các chuyên viên Nhà nước) từ đó nâng cao không ngừng hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý Nhà nước.
- Hệ thống phục vụ quản lý Nhà nước hiệu quả hơn vì hệ thống luôn được công ty đầu tư hoàn thiện theo yêu cầu quản lý Nhà nước. Những khó khăn, vướng mắc sẽ được chủ động giải quyết. Hiệu quả của hệ thống không chỉ mang lại lợi ích cho Nhà nước mà còn cho chính các công ty đầu tư.
- Nhà nước không phải bỏ ra một nguồn đầu tư kinh phí quá lớn trong khi thiếu hụt nhiều yếu tố để đạt thành công như quảng bá, marketing, nhân lực, quản lý kinh doanh công nghệ cao…
- Nhà nước không phải đầu tư xây dựng một đội ngũ công nghệ thông tin để vận hành hệ thống mà chỉ tập trung đầu tư xây dựng một đội ngũ quản trị hệ thống, phân tích nghiệp vụ và khai thác hệ thống dưới sự hỗ trợ của công ty đầu tư.
- Nhà nước thu lại được kinh phí từ việc khai thác giá trị gia tăng của hệ thống thông tin đất đai để bù đắp lại kinh phí duy trì, phát triển đội ngũ công nghệ thông tin của cơ quan Nhà nước.
Về phía doanh nghiệp:
- Công ty được quyền thu phí thông qua các chức năng của hệ thống khai thác giá trị gia tăng. Chia sẻ nguồn thu được thỏa thuận giữa hai bên: Nhà nước và công ty đầu tư.
- Công ty có quyền được khai thác giá trị gia tăng trên nền tảng cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính đã được xây dựng và đang vận hành.
Trong dự án này không đề ra giải pháp cụ thể về mặt công nghệ cũng như tổ chức để xây dựng hệ thống khai thác giá trị gia tăng cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính. Chính vì thế dự án sẽ không dự trù kinh phí cho định hướng này.
VI. GIẢI PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH CHÍNH.
Các hệ thống được xây dựng trong dự án này muốn thực sự đi vào hoạt động chung của quản lý về đất đai, đặc biệt đối với hệ thống cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính. Sở TNMT cần tham mưu cho UBND thành phố về các giải pháp về kỹ thuật và biện pháp về mặt hành chính đồng bộ với các ngành quản lý khác nhằm đảm bảo cho hệ thống phải vận hành thực sự phục vụ đúng các mục tiêu và yêu cầu đề ra.
VI.1 Biện pháp đối với người sử dụng (Cán bộ tham gia hệ thống).
Trong thực tế có rất nhiều lý do, người sử dụng từ chối tham gia vào hoạt động của hệ thống vì thay đổi một thói quen làm việc là điều không dễ. Các nhân viên thường mượn nhiều lý do để khước từ tham gia. Các lý do có thể chính đáng và cũng có thể là không chính đáng ví dụ :
- Hệ thống trong quá trình vận hành có thể phát sinh nhiều lỗi không thể sử dụng được.
- Nhân viên tham gia vận hành không thấy hiệu quả vì không rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ của mình.
- Chưa quen sử dụng hoặc vẫn xử lý hồ sơ theo cách cũ mà không thấy có sự khiển trách của lãnh đạo do công việc vẫn giải quyết tốt cho từng trường hợp.
- Sự thay đổi về quy trình nghiệp vụ mà hệ thống chưa đáp ứng được.
Một số biện pháp cần áp dụng như sau:
- Trong trường hợp chỉ vì những lỗi nhỏ, không ảnh hưởng đến toàn bộ vận hành chung của hệ thống, cán bộ tham gia cần báo cáo cho lãnh đạo tìm cách giải quyết. Cán bộ tham gia không vì những lỗi đó mà khước từ sử dụng.
- Trong trường hợp quy trình nghiệp vụ trên hệ thống còn rườm rà, không cần thiết, phòng Tài nguyên và Môi trường cần thông báo về Sở và đơn vị thi công để tìm biện pháp xử lý nhằm rút gọn quy trình.
- Số lượng hồ sơ được xử lý qua hệ thống phải là cơ sở để đánh giá hiệu quả làm việc của từng cán bộ. Lãnh đạo khách quan đánh giá khối lượng, chất lượng phục vụ của cán bộ, nhân viên mình thông qua số liệu thống kê của từng cán bộ mà hệ thống cung cấp.
- Lãnh đạo Sở và phòng Tài nguyên và Môi trường tăng cường công tác chỉ đạo giám sát việc vận hành hệ thống để có biện pháp xử lý kịp thời các phát sinh.
- Mọi sự ngừng trệ hoạt động của hệ thống đã xây dựng phải được thông qua Sở Tài nguyên và Môi trường và phải được Sở tài nguyên và Môi trường xem xét quyết định.
VI.2 Biện pháp đối với đơn vị thi công.
Đây là một dự án kéo dài và quy mô triển khai rất lớn về dữ liệu, con người và phạm vi địa lý. Chính vì thế, các điều khoản trong hợp đồng với đơn vị thi công cần chặt chẽ và phù hợp với từng giai đọan và phải được thảo luận kỹ lưỡng với đơn vị thi công. Đặc biệt chú trọng đến giai đoạn vận hành, phát triển và bảo trì hệ thống để tránh trường hợp đơn vị thi công chấm dứt hợp đồng thì hệ thống cũng bị ngưng trệ theo. Một số điểm đề xuất như sau:
- Cần có cơ chế ràng buộc cao về trách nhiệm thực thi đến cùng các hệ thống đang được các đơn vị thi công triển khai.
- Đặc biệt về tài chính: Cần giữ lại ít nhất 30% tổng giá trị hợp đồng cho giai đoạn bảo trì hệ thống.
- Cần có cơ chế thưởng phạt rõ ràng đối với các đơn vị thi công trong việc phối hợp ứng phó với các sự cố và chỉnh sửa, khắc phục các lỗi, các vấn đề phát sinh trong quá trình vận hành hệ thống.
- Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổng hợp các nghiệp vụ cần thay đổi ( thay đổi do quy định, thay đổi để phù hợp hơn, thêm các chức năng phục vụ…), lên kế hoạch và dự trù kinh phí để đơn vị thi công tiếp tục phát triển hệ thống.
Translation - French V. SOLUTION PERMETTANT L’EXPLOITATION DE LA VALEUR AJOUTÉE DE LA BASE DE DONNÉES CADASTRALES
Une des orientations stratégiqueS du projet est l’exploitation de la valeur ajoutée de la base de données cadastrales en particulier et des bases de données relatives aux ressources naturelles et de l’environnement en général. Les gains peuvent être réinvestis dans le système et contribuer au budget d’État.
L’exploitation de la valeur ajoutée au service de la communauté et des organisations socio-économiques doit être conforme au Décret no 102/2008/ND-CP promulgué le 15 septembre 2008 par le Gouvernement.
Pour construire un système d’exploitation de la valeur ajoutée de la base des données cadastrales, il faut effectuer une bonne évaluation des besoins et des exigences du marché et rédiger un plan détaillée à soumettre au Comité populaire de la ville pour l’approbation.
Ces formes d’exploitation dépendent largement des facteurs comme la ligne de transmission, la technologie3G, Wifi, Wimax… et la possibilité de connexion avec les autres bases de données comme celles sur la construction, l’aménagement, fiscales… dans le but de diversifier les sources d’informations au service de l’économie et de la société.
Sur le côté organisationnel, le Centre d’information sur les ressources naturelles et l’environnement et sur l’enregistrement foncier et immobilier est chargé de soumettre à la Direction générale des ressources naturelles et de l’environnement de la ville différents plans d’exploitation de la valeur ajoutée des bases de données constituées dans le cadre de ce projet, et est responsable de l’organisation de la mise en oeuvre. Cependant, nous recommandons un investissement BOT (Building-Operation-Transfer) dans ce système d’exploitation de la valeur ajoutée, pout attirer les grands investisseurs, dans l’objectif d’un partage de profit entre l’État et les investisseurs conformément au contrat d’investissement. Bien que ce ne soit qu’une alternative, elle mérite d’être étudier avec soin pour être mise en oeuvre dans l’avenir si les conditions le permettent
Les avantages du BOT sont divers:
De la part de l’État:
- L’État peut choisir un partenaire étant vraiment capable de mettre en place le système d’exploitation de la valeur ajoutée. Les entreprises ne cherchant que du profit à court terme n’auront pas intérêt de participer à l’adjudication, car seul un investissement à long terme, sérieux, bien organisé peut être capable de générer le profit.
- Le maître d’oeuvre devra toujours faire l’attention au développement du système, faute de quoi, leur profit diminuera, ce qui affectera directement le chiffre d’affaires de l’entreprise. Ainsi, la maintenance et la mise à jour du système seront assurés. Tout changement institutionnel sera mis à jour afin de faciliter le travail de l’utilisateur (qui est les agents de l’État), ce qui contribuera à renforcer l’efficacité de l’application de la technologie d’information pour la gestion d’État.
- Le système servira plus efficacement la gestion d’État, car il est mis à jour sans cesse par le maître d’oeuvre. Les difficultés seront résolues immédiatement. Non seulement l’État, mais aussi le maître d’oeuvre gagnera de cela.
- L’État ne doit pas investir trop, d’autant plus que l’exploitation de la valeur ajoutée de la base de données exige de gros investissements dans la publicité, le marketing, le personnel, la gestion des services de haute technologie …
- L’État ne doit pas investir dans l’entraînement du personnel pour assurer l’opération du système, mais seulement pour gérer et exploiter le système avec l’assistance de l’entreprise investisseur.
- Les gains provenant de l’exploitation de la valeur ajoutée du système de données foncières peuvent compenser les dépenses pour le maintien et le développement de l’équipe de technologie d’information dans les organismes d’État.
De la part de l’entreprise investisseur:
- L’Entreprise est autorisée de percevoir les frais de services différents offerts par le système d’exploitation de la valeur ajoutée. Le profit sera partagé selon l’accord entre les deux parties: l’État et l’entreprise investisseur.
- L’Entreprise a le droit d’exploiter les valeurs ajoutées de la base de données cadastrales construites et en opération.
Dans le cadre de ce projet, nous ne proposons pas de solutions concrètes concernant la technologie et à la mise en place du système d’exploitation de la valeur ajoutée de la base de données cadastrales. Par conséquent, nous ne proposons pas la prévision financière pour ces points.
VI. SOLUTION ADMINISTRATIVE.
Pour assurer une bonne opération des systèmes construites dans le cadre de ce projet, notamment les systèmes de base de données cadastrales, le Service des ressrouces naturelles et de l’environnement doit soumettre au Comité populaire de la ville pour approbation les solutions techniques et les mesures administratives cohérentes avec celles des autres branches, afin de permettre que les systèmes répondent aux objectifs et exigences fixés.
VI.1 Les mesures relatives aux utilisateurs (les agents d’État).
En réalité, l’utilisateur refuse de partificiper aux activités du système à plusieurs titres, car le changement d’une habitude n’est jamais facile. Ainsi, il allègue différentes raisons. Ces raisons, légitimes ou non, peuvent être les suivantes:
- L’utilisation du système est difficile, à cause des erreurs générées dans son opération.
- L’utilisation du système n’est pas efficace car elle ne permet pas de réduire le délai de traitement du dossier.
- L’utilisateur n’habitue pas au système ou continue à traiter manuellement les dossiers sans être puni par son chef, car le traitement marche toujours bien dossier par dossier.
- Il nécessite un changement du processus de traitement que le système ne peut pas satisfaire.
Pour ces raisons, nous recommandons que:
- Si les erreurs générées ne sont pas sérieux et n’affectent pas l’opération du système, l’utilisateur doit avertir son chef pour les résoudre. Il ne faut pas refuser l’utilisation du système à cause de ces fautes.
- Si le processus de traitement du dossier par le système s’avère compliqué, le Bureau des ressources naturelles et de l’environnement doit informer la Direction générale des ressources naturelles et de l’environnement et le maître d’oeuvre pour trouver des solutions visant à simplifier le processus.
- Le nombre des dossiers traités par le système doit se servir de base pour évaluer l’efficacité du travail de chaque agent. Ainsi, le chef doit évaluer objectivement le volume et la qualité du travail de son personnel sur la base des statisitiques fournis par le système.
- Les chefs du Service et du Bureau des ressources naturelles et de l’environnement doivent renforcer le suivi du fonctionnement du système pour résoudre immédiatement les problèmes posés.
- Le système n’est interrompu qu’avec l’autorisation de la Direction générale des ressources naturelles et de l’environnement.
VI.2 De la part du maître d’oeuvre.
Il s’agit d’un projet à long terme et de grande envergure en terme de données, de personnel et d’espace. C’est pourquoi, le contrat signé avec le maître d’oeuvre doit être rédigé soigneusement, prenant en considération de différentes phases et être bien discuté avec le maître d’oeuvre. L’accent doit être mis sur la phase de mise en service, de mise à jour et de maintenance du système pour éviter que le système devienne inopérant après la fin du contrat. Ainsi, nous proposons les mesures suivantes:
- Les clauses du contrat doivent être strictes pour assurer que le maître d’oeuvre accomplisse ses tâches engagées.
- Côté finance en particulier: Il faut retenir au moins 30% de la valeur totale du contrat pour la maintenance du système.
- Le contrat doit être claire sur la récompense et la pénalité pour assurer que le maître d’oeuvre coordine bien dans la résolution des problèmes et la réparation des erreurs générés dans le fonctionnement du système.
- La Direction générale des ressources naturelles et de l’environnement doit faire la liste des tâches faisant l’objet du changement (soit pour être conforme aux règles, soit pour mieux s’adapter à la technologie) et des tâches à ajouter, adopter le plan de mise en oeuvre et la prévision financière pour permettre au maître d’oeuvre de continuer à développer le système.
More
Less
Translation education
Graduate diploma - ESIT & Académie diplomatique du Vietnam
Experience
Years of experience: 22. Registered at ProZ.com: Oct 2014.
Adobe Acrobat, Microsoft Excel, Microsoft Office Pro, Microsoft Word, Powerpoint
CV/Resume
CV available upon request
Bio
J'ai le Diplôme d’études supérieures d’interprètes de conférence délivré conjointement par l'ESIT (l'Ecole française supérieure d'interprète et de traducteur) et l'Académie diplomatique du Vietnam en 2001. Depuis, je pratique la profession d'interprète et de traduction en tant que professionnelle et collaboratrice à différent projets du gouvernement et privés, quelques exemples:
- Interprète pour les personnalités d'Etat lors des visites des délégations étrangères au Vietnam
- Interprète pour les missions de travail vietnamienne en France de 2011 à 2014 (ex: délégations du Ministère de la Sécurité publique, du Paquet supreme, du Ministère de la Justice, du Tribunal suprême populaire, de l'Institut des recherches économiques, de l'Académie des Sciences sociales...)
- Interprète simultanée des Débats d'entreprises entre 2011-2014 (lors de ma mission à l'Ambassade du Vietnam en France)
- Dans le groupe de traducteurs du Rapport vietnamien sur la réalisation des 0bjectifs du Millénaire pour le Développement 2010
- Dans le groupe de traducteurs des éditions RAMSES depuis 2001.
- Interprète et Traductrice collaboratrice de l'ADETEF Vietnam
- Dans le groupe de rédaction du Dictionnaire terminologique diplomatique Vietnamien-Français-Anglais réalisé par l'Académie diplomatique du Vietnam en 2001 (Maison d'éditions Politique Nationale)
- Dans le groupe de traduction du manuel Droit international réalisé par l'Académie diplomatique du Vietnam en 2007 (maison d'éditions de l'Univerisité nationale de Hanoi)
- Traductrice collaboratrice des projets Franco-Vietnamien (seulement en 2010) sur: réforme de la Cadastre de Hochiminh-ville (2010), Gestion agraire (2010), conférence internationale sur le secteur informel (2010), conférence internationale sur le traitement de déchet industriel (2010)
- Traductrice du Document d'information sur la Mer du Sud du Vietnam, réalisé par la Commission des affaires frontalières du Gouvernement (2011).
.....